Hàng năm, Bệnh viện bệnh nhiệt đới (BVBNĐ) TP.HCM tiếp nhận điều trị nội trú khoảng 30.000 bệnh nhân và ngoại trú khoảng 150.000 bệnh nhân. Mô hình các bệnh truyền nhiễm điều trị tại bệnh viện đã có nhiều thay đổi so với thời gian trước đây. Một số loại dịch bệnh không còn được phát hiện. Những loại bệnh truyền nhiễm có số lượng bệnh nhân mắc bệnh giảm là: sốt rét, thương hàn, nhiễm não mô cầu, nhiễm Leptospira, bạch hầu, ho gà.
Những bệnh có số người mắc hàng năm tăng giảm không đáng kể gồm uốn ván, viêm gan siêu vi, viêm não siêu vi, quai bị, bệnh dại, nhiễm trùng huyết, viêm màng não mủ. Còn lại là nhóm những bệnh truyền nhiễm mới nổi như HIV/AIDS, sốt xuất huyết dengue, thủy đậu, rubella, sán lá gan lớn, SARS, cúm A (H5N1), nhiễm liên cầu lợn Streptococcus suis.
Khuynh hướng diễn tiến các bệnh truyền nhiễm điều trị tại BVBNÐ trong những năm đầu thế kỷ XXI có thể được ghi nhận như sau: những bệnh cổ điển như sốt rét, thương hàn, nhiễm não mô cầu... diễn biến theo những thay đổi của các điều kiện về kinh tế - xã hội, môi trường sống và tác động của các biện pháp can thiệp của ngành y tế hiện đang dần dần được kiểm soát. Các loại bệnh thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia như: bạch hầu, ho gà, sởi... cũng đang có chiều hướng giảm dần. Riêng số mắc bệnh uốn ván vẫn còn cao và hơn hết là bệnh uốn ván sơ sinh cần tích cực chủ động phòng ngừa, không để bệnh tiếp tục xảy ra. Những loại bệnh do siêu vi gây ra như nhiễm HIV/AIDS, viêm gan siêu vi, viêm não, sốt xuất huyết... tiếp tục diễn biến phức tạp, những loại bệnh mới trỗi dậy như cúm A (H5N1), nhiễm liên cầu lợn Streptococcus suis, rubella... cho thấy xu thế “hội nhập” khu vực và thế giới của mô hình bệnh truyền nhiễm tại nước ta, đặt ra yêu cầu cộng tác chặt chẽ trong các hoạt động phòng chống dịch bệnh giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Những bệnh có số người mắc hàng năm tăng giảm không đáng kể gồm uốn ván, viêm gan siêu vi, viêm não siêu vi, quai bị, bệnh dại, nhiễm trùng huyết, viêm màng não mủ. Còn lại là nhóm những bệnh truyền nhiễm mới nổi như HIV/AIDS, sốt xuất huyết dengue, thủy đậu, rubella, sán lá gan lớn, SARS, cúm A (H5N1), nhiễm liên cầu lợn Streptococcus suis.
Khuynh hướng diễn tiến các bệnh truyền nhiễm điều trị tại BVBNÐ trong những năm đầu thế kỷ XXI có thể được ghi nhận như sau: những bệnh cổ điển như sốt rét, thương hàn, nhiễm não mô cầu... diễn biến theo những thay đổi của các điều kiện về kinh tế - xã hội, môi trường sống và tác động của các biện pháp can thiệp của ngành y tế hiện đang dần dần được kiểm soát. Các loại bệnh thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia như: bạch hầu, ho gà, sởi... cũng đang có chiều hướng giảm dần. Riêng số mắc bệnh uốn ván vẫn còn cao và hơn hết là bệnh uốn ván sơ sinh cần tích cực chủ động phòng ngừa, không để bệnh tiếp tục xảy ra. Những loại bệnh do siêu vi gây ra như nhiễm HIV/AIDS, viêm gan siêu vi, viêm não, sốt xuất huyết... tiếp tục diễn biến phức tạp, những loại bệnh mới trỗi dậy như cúm A (H5N1), nhiễm liên cầu lợn Streptococcus suis, rubella... cho thấy xu thế “hội nhập” khu vực và thế giới của mô hình bệnh truyền nhiễm tại nước ta, đặt ra yêu cầu cộng tác chặt chẽ trong các hoạt động phòng chống dịch bệnh giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thế giới đang có mối âu lo về nguy cơ dịch bệnh bùng phát. Trong nhiều thế kỷ trước, con người quan tâm chủ yếu vào những bệnh truyền nhiễm “tối nguy hiểm” như dịch hạch, dịch tả, đậu mùa, sốt vàng cùng các bệnh sốt phát ban, sốt hồi quy. Giờ đây, thực tế cho thấy các bệnh truyền nhiễm không chỉ lan tràn rầm rộ mà nhiều bệnh mới đã xuất hiện với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Kể từ thập niên 1970, nhiều bệnh mới đã xuất hiện với tần suất ít nhất 1 bệnh mỗi năm, tổng cộng đã có gần 40 bệnh mới được phát hiện trong vòng 30 năm qua. Một vụ dịch ở bất cứ nơi nào trên thế giới chỉ cần vài giờ đã có thể trở thành mối đe dọa hiển nhiên cho một khu vực khác. Cụ thể trong vòng 5 năm gần đây, Tổ chức y tế thế giới đã phải giải quyết hơn 1.100 vụ dịch bệnh lớn nhỏ trên toàn cầu. Trong số những bệnh mới gây chú ý trên thế giới phải kể đến bệnh SARS, dịch cúm H5N1 và kế đến là những bệnh gây chết người của thế kỷ trước đã trở lại với khả năng gây tử vong không kém phần nghiêm trọng, như sốt rét, dịch tả, lao.
Những bệnh giảm đi rõ rệt
Sốt rét: qua 7 năm đầu thập kỷ XXI, số bệnh nhân (BN) sốt rét trung bình nhập viện hàng năm là 387 ± 296 trường hợp. Tuy nhiên, số lượng BN điều trị có khuynh hướng giảm rõ rệt qua từng năm. Trong năm 2000, số trường hợp sốt rét điều trị tại bệnh viện (BV) là 903 trường hợp, trong đó 57 là trẻ em. Riêng số bệnh nhân sốt rét ác tính là 164 với 13 là trẻ em. Đến năm 2006, chỉ có 188 BN nhập viện (11 trẻ em) và số trường hợp sốt rét ác tính là 59 (5 trẻ em). Tỷ lệ tử vong chung của sốt rét hiện tại là 1%. Bệnh nhân đa số cư ngụ hoặc lui tới làm việc sinh sống tại vùng dịch tễ sốt rét, nhất là các tỉnh miền Đông Nam bộ. Điều cảnh báo đối với các thầy thuốc là không bao giờ được lãng quên chẩn đoán sốt rét và làm phết máu cùng test nhanh chẩn đoán trước các trường hợp sốt cấp tính, có các yếu tố dịch tễ nghi ngờ sốt rét.
Bệnh thương hàn: trong thập niên 1990, bệnh thương hàn đã gia tăng đến mức độ gây dịch tại các tỉnh thành phía nam, đỉnh cao vào năm 1995 với số BN điều trị nội trú tại BV là 1.279 người. Kể từ năm 2000 đến nay, số trường hợp theo dõi thương hàn nhập viện tiếp tục giảm, từ số 302 trường hợp năm 2000 đến năm 2006 chỉ có 84 bệnh nhân điều trị tại bệnh viện với số trung bình điều trị hàng năm là 208 ± 75 ca. Tuy nhiên, số trường hợp thương hàn cấy máu (+)trung bình mỗi năm là 60 ± 26 ca. Tỷ lệ đa kháng thuốc của các dòng Salmonella typhi tính trên 398 trường hợp nuôi cấy (+) trong vòng 7 năm qua tại bệnh viện giảm còn 51%, tuy tỷ lệ kháng nalidixic acid còn cao ở mức 68%. Kháng sinh điều trị chủ yếu hiện nay tại BV là gatifloxacin với thời gian 10 ngày.
Bệnh nhiễm não mô cầu: qua những năm đầu thập niên 2000, số trường hợp nhiễm trùng huyết và viêm màng não do não mô cầu nhập viện không đáng kể, ít hơn 10 trường hợp được phát hiện hàng năm. Trong số 9 chủng vi khuẩn được phân lập và định danh từ năm 2000 đến 2004, tất cả đều là nhóm B. Riêng năm 2006, 3 chủng phân lập được lại thuộc nhóm C. Trong số 12 chủng nói trên, kháng sinh đồ ghi nhận có 2 chủng kháng penicillin và tất cả đều nhạy với ceftriaxon.
Nhiễm Leptospira : nếu như trong thập niên 1990, số BN nhiễm Leptospira hàng năm điều trị tại BVBNĐ đều nhiều hơn 20 người, từ năm 2000 đến nay, số trường hợp điều trị nội trú trung bình hàng năm là 7 ± 4 ca và không có tử vong.
Bệnh bạch hầu: số trường hợp theo dõi bệnh bạch hầu (phết họng soi có vi trùng bắt màu hạt nhiễm sắc) tại bệnh viện trong 7 năm đầu thập niên 2000 trung bình là 75 ± 35 (thay đổi từ 28 - 119), trong đó, trẻ em chiếm 94,3%. Tỷ lệ tử vong chung là 2,8%. Trong 3 năm từ 2003 - 2006, bệnh có khuynh hướng giảm dần với số nhập viện trung bình là 41 ± 15 trường hợp (thay đổi từ 28 - 58) và không có tử vong.
Ho gà: bệnh được phát hiện rất ít tại BVBNĐ. Trung bình hàng năm thay đổi từ 0 - 5 trường hợp. Diễn tiến lành tính.
Những bệnh tăng giảm không đáng kể
Uốn ván: là loại bệnh được phòng ngừa trong chương trình tiêm chủng mở rộng của quốc gia, nhưng qua 7 năm đầu của thập niên 2000, số bệnh nhân điều trị tại BVBNĐ vẫn còn ở mức trung bình hàng năm là 233 ± 41 (thay đổi từ 181 - 281) trường hợp. Ngay cả bệnh uốn ván sơ sinh, hàng năm cũng có trung bình 8 ± 4 (thay đổi từ 3 - 14 trường hợp).
Tỷ lệ tử vong chung của bệnh uốn ván điều trị tại bệnh viện hiện tại là 6,7%, giảm rất nhiều so với tỷ lệ tử vong của bệnh này trước đây (20 - 25%). Riêng uốn ván sơ sinh, tỷ lệ tử vong vẫn còn cao 24,5%, tuy 3 năm gần đây chỉ có 1 bệnh nhi mất trong số 12 em nhập viện.
Những sự thay đổi quan trọng tại khoa điều trị bệnh uốn ván: số máy thở sử dụng tăng dần (từ 3 lên 12 máy), thay đổi các thủ thuật kiểm soát nhiễm khuẩn (trang bị thêm bồn rửa tay, rửa tay nhanh, sử dụng ống hút đàm dùng một lần, tăng khoảng cách giữa mỗi giường bệnh), sự phân công chăm sóc điều dưỡng. Ngoài ra, tỷ lệ tử vong tiếp tục giảm ngay cả khi tỷ lệ bệnh nhân thở máy đã ổn định, chứng tỏ rằng các can thiệp khác, ít tốn kém hơn, cũng có tác động.
Viêm gan siêu vi: số trường hợp viêm gan siêu vi điều trị tại bệnh viện thường chiếm vị trí thứ 4 sau các bệnh tiêu chảy, sốt xuất huyết và nhiễm HIV/AIDS. Qua 7 năm đầu của thập niên 2000, số ca điều trị nội trú trung bình hàng năm là 513 ± 76 (thay đổi từ 431 - 659). Viêm gan siêu vi (VGSV) B chiếm đa số (281 ± 27 ca/năm), tiếp theo là VGSV C (84 ± 35 ca), VGSV A (24 ± 6 ca), VGSV E (7 ± 3 ca) và VGSV không xác định (74 ± 38 ca). Nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực chẩn đoán và điều trị bệnh VGSV chưa được tập trung nghiên cứu và đây sẽ là một trong những ưu tiên cho hoạt động nghiên cứu khoa học của bệnh viện. Hiện tại, những vấn đề đang được quan tâm là: các nguyên nhân gây các loại bệnh VGSV cấp đang điều trị tại bệnh viện? Vấn đề lây nhiễm VGSV B với HBeAg âm tính? Cách chọn lựa điều trị đầu tiên trên bệnh nhân VGSV B mạn tính? Kháng thuốc kiểu gen và kiểu hình liên quan với lâm sàng như thế nào? Rối loạn điện giải trên bệnh nhân xơ gan mất bù và suy gan cấp? Vai trò của Peg-IFN và IFN trên bệnh nhân VGSV B và C trong tình hình điều trị thực tế hiện nay.
Viêm não siêu vi: trong nhóm những trường hợp bệnh nhiễm trùng thần kinh trung ương điều trị tại BVBNĐ, bệnh viêm não do siêu vi tiếp tục có số lượng bệnh nhân không thay đổi đáng kể trong các năm qua. Số trường hợp điều trị hàng năm trung bình là 92 ± 13, tử vong 4 ± 1 ca (thay đổi từ 3 - 7). Về bệnh viêm não Nhật Bản, số trường hợp điều trị tại bệnh viện trung bình là 4 ca mỗi năm (thay đổi từ 1 -10 ca) và không có tử vong. Riêng bệnh viêm não - màng não do Herpes simplex, bệnh viện có khả năng chẩn đoán với kỹ thuật PCR nhưng việc điều trị còn hạn chế.
Bệnh quai bị: trong những năm đầu thập niên 2000, quai bị vẫn còn là loại bệnh truyền nhiễm quan trọng nhập viện điều trị với số BN thay đổi tùy theo năm, trung bình số điều trị nội trú mỗi năm là 273 ± 161 trường hợp, trong đó số trẻ em mắc quai bị là 85 ± 62. Số BN nhập viện đã tăng vọt cả ở người lớn và trẻ em trong một số năm. Thí dụ như trong 2 năm 2000 - 2001 đã có 557 người lớn, 335 trẻ em và trong 2 năm 2004 - 2005 có 518 người lớn, 168 trẻ em nhập viện. Trong khi đó, vào các năm 2002, 2003, 2006, số BN người lớn trung bình hàng năm chỉ là 80 và 30 trẻ em. Điều này cho thấy, chủng ngừa phòng bệnh quai bị cần được xem xét để có khuyến cáo thực hiện.
Bệnh dại: qua thế kỷ XXI, số trường hợp bệnh dại được chuyển về BVBNĐ trung bình hàng năm là 12 ± 4 (thay đổi từ 6 - 18 ca). Đa số bệnh nhân cư ngụ tại các tỉnh thành phía nam và không được xử trí vết thương sau khi bị chó cắn, không được chích ngừa vaccin phòng dại.
Nhiễm trùng huyết: số trường hợp cấy máu trung bình mỗi năm tại bệnh viện vào khoảng 4.000 với tỷ lệ cấy máu dương tính là 9%. Tác nhân gây bệnh phát hiện trước năm 2000 chủ yếu là Salmonella typhi nhưng kể từ năm 2000 tới nay, tác nhân chính được phát hiện hàng đầu là nấm Cryptococcus neoformans và Penicillium sp., sau đó là các vi khuẩn dòng Enterobacteriaceae, có tỷ lệ kháng cao với các loại kháng sinh thông thường như ampicillin, co - trimoxazol, nalidixic acid (trên 60%) nhưng còn nhạy cảm tốt với các kháng sinh họ cephalosporin thế hệ 3, amikacin, imipenem.
Bệnh viêm màng não mủ: số trường hợp trung bình dịch não tủy được cấy hàng năm là 1.500, với tỷ lệ dương tính là 12%, trong đó tác nhân chủ yếu là Cryptococcus, tiếp theo là Streptoccocus suis và Streptococcus pneumoniae. Với S. suis, kháng sinh được chọn lựa đầu tiên để điều trị là ceftriaxon hoặc penicillin (nhạy trên kháng sinh đồ 100%) nhưng với Streptococcus pneumoniae, tỷ lệ kháng penicillin đã tăng lên trên 50%.
Những bệnh giảm đi rõ rệt
Sốt rét: qua 7 năm đầu thập kỷ XXI, số bệnh nhân (BN) sốt rét trung bình nhập viện hàng năm là 387 ± 296 trường hợp. Tuy nhiên, số lượng BN điều trị có khuynh hướng giảm rõ rệt qua từng năm. Trong năm 2000, số trường hợp sốt rét điều trị tại bệnh viện (BV) là 903 trường hợp, trong đó 57 là trẻ em. Riêng số bệnh nhân sốt rét ác tính là 164 với 13 là trẻ em. Đến năm 2006, chỉ có 188 BN nhập viện (11 trẻ em) và số trường hợp sốt rét ác tính là 59 (5 trẻ em). Tỷ lệ tử vong chung của sốt rét hiện tại là 1%. Bệnh nhân đa số cư ngụ hoặc lui tới làm việc sinh sống tại vùng dịch tễ sốt rét, nhất là các tỉnh miền Đông Nam bộ. Điều cảnh báo đối với các thầy thuốc là không bao giờ được lãng quên chẩn đoán sốt rét và làm phết máu cùng test nhanh chẩn đoán trước các trường hợp sốt cấp tính, có các yếu tố dịch tễ nghi ngờ sốt rét.
Bệnh thương hàn: trong thập niên 1990, bệnh thương hàn đã gia tăng đến mức độ gây dịch tại các tỉnh thành phía nam, đỉnh cao vào năm 1995 với số BN điều trị nội trú tại BV là 1.279 người. Kể từ năm 2000 đến nay, số trường hợp theo dõi thương hàn nhập viện tiếp tục giảm, từ số 302 trường hợp năm 2000 đến năm 2006 chỉ có 84 bệnh nhân điều trị tại bệnh viện với số trung bình điều trị hàng năm là 208 ± 75 ca. Tuy nhiên, số trường hợp thương hàn cấy máu (+)trung bình mỗi năm là 60 ± 26 ca. Tỷ lệ đa kháng thuốc của các dòng Salmonella typhi tính trên 398 trường hợp nuôi cấy (+) trong vòng 7 năm qua tại bệnh viện giảm còn 51%, tuy tỷ lệ kháng nalidixic acid còn cao ở mức 68%. Kháng sinh điều trị chủ yếu hiện nay tại BV là gatifloxacin với thời gian 10 ngày.
Bệnh nhiễm não mô cầu: qua những năm đầu thập niên 2000, số trường hợp nhiễm trùng huyết và viêm màng não do não mô cầu nhập viện không đáng kể, ít hơn 10 trường hợp được phát hiện hàng năm. Trong số 9 chủng vi khuẩn được phân lập và định danh từ năm 2000 đến 2004, tất cả đều là nhóm B. Riêng năm 2006, 3 chủng phân lập được lại thuộc nhóm C. Trong số 12 chủng nói trên, kháng sinh đồ ghi nhận có 2 chủng kháng penicillin và tất cả đều nhạy với ceftriaxon.
Nhiễm Leptospira : nếu như trong thập niên 1990, số BN nhiễm Leptospira hàng năm điều trị tại BVBNĐ đều nhiều hơn 20 người, từ năm 2000 đến nay, số trường hợp điều trị nội trú trung bình hàng năm là 7 ± 4 ca và không có tử vong.
Bệnh bạch hầu: số trường hợp theo dõi bệnh bạch hầu (phết họng soi có vi trùng bắt màu hạt nhiễm sắc) tại bệnh viện trong 7 năm đầu thập niên 2000 trung bình là 75 ± 35 (thay đổi từ 28 - 119), trong đó, trẻ em chiếm 94,3%. Tỷ lệ tử vong chung là 2,8%. Trong 3 năm từ 2003 - 2006, bệnh có khuynh hướng giảm dần với số nhập viện trung bình là 41 ± 15 trường hợp (thay đổi từ 28 - 58) và không có tử vong.
Ho gà: bệnh được phát hiện rất ít tại BVBNĐ. Trung bình hàng năm thay đổi từ 0 - 5 trường hợp. Diễn tiến lành tính.
Những bệnh tăng giảm không đáng kể
Uốn ván: là loại bệnh được phòng ngừa trong chương trình tiêm chủng mở rộng của quốc gia, nhưng qua 7 năm đầu của thập niên 2000, số bệnh nhân điều trị tại BVBNĐ vẫn còn ở mức trung bình hàng năm là 233 ± 41 (thay đổi từ 181 - 281) trường hợp. Ngay cả bệnh uốn ván sơ sinh, hàng năm cũng có trung bình 8 ± 4 (thay đổi từ 3 - 14 trường hợp).
Tỷ lệ tử vong chung của bệnh uốn ván điều trị tại bệnh viện hiện tại là 6,7%, giảm rất nhiều so với tỷ lệ tử vong của bệnh này trước đây (20 - 25%). Riêng uốn ván sơ sinh, tỷ lệ tử vong vẫn còn cao 24,5%, tuy 3 năm gần đây chỉ có 1 bệnh nhi mất trong số 12 em nhập viện.
Những sự thay đổi quan trọng tại khoa điều trị bệnh uốn ván: số máy thở sử dụng tăng dần (từ 3 lên 12 máy), thay đổi các thủ thuật kiểm soát nhiễm khuẩn (trang bị thêm bồn rửa tay, rửa tay nhanh, sử dụng ống hút đàm dùng một lần, tăng khoảng cách giữa mỗi giường bệnh), sự phân công chăm sóc điều dưỡng. Ngoài ra, tỷ lệ tử vong tiếp tục giảm ngay cả khi tỷ lệ bệnh nhân thở máy đã ổn định, chứng tỏ rằng các can thiệp khác, ít tốn kém hơn, cũng có tác động.
Viêm gan siêu vi: số trường hợp viêm gan siêu vi điều trị tại bệnh viện thường chiếm vị trí thứ 4 sau các bệnh tiêu chảy, sốt xuất huyết và nhiễm HIV/AIDS. Qua 7 năm đầu của thập niên 2000, số ca điều trị nội trú trung bình hàng năm là 513 ± 76 (thay đổi từ 431 - 659). Viêm gan siêu vi (VGSV) B chiếm đa số (281 ± 27 ca/năm), tiếp theo là VGSV C (84 ± 35 ca), VGSV A (24 ± 6 ca), VGSV E (7 ± 3 ca) và VGSV không xác định (74 ± 38 ca). Nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực chẩn đoán và điều trị bệnh VGSV chưa được tập trung nghiên cứu và đây sẽ là một trong những ưu tiên cho hoạt động nghiên cứu khoa học của bệnh viện. Hiện tại, những vấn đề đang được quan tâm là: các nguyên nhân gây các loại bệnh VGSV cấp đang điều trị tại bệnh viện? Vấn đề lây nhiễm VGSV B với HBeAg âm tính? Cách chọn lựa điều trị đầu tiên trên bệnh nhân VGSV B mạn tính? Kháng thuốc kiểu gen và kiểu hình liên quan với lâm sàng như thế nào? Rối loạn điện giải trên bệnh nhân xơ gan mất bù và suy gan cấp? Vai trò của Peg-IFN và IFN trên bệnh nhân VGSV B và C trong tình hình điều trị thực tế hiện nay.
Viêm não siêu vi: trong nhóm những trường hợp bệnh nhiễm trùng thần kinh trung ương điều trị tại BVBNĐ, bệnh viêm não do siêu vi tiếp tục có số lượng bệnh nhân không thay đổi đáng kể trong các năm qua. Số trường hợp điều trị hàng năm trung bình là 92 ± 13, tử vong 4 ± 1 ca (thay đổi từ 3 - 7). Về bệnh viêm não Nhật Bản, số trường hợp điều trị tại bệnh viện trung bình là 4 ca mỗi năm (thay đổi từ 1 -10 ca) và không có tử vong. Riêng bệnh viêm não - màng não do Herpes simplex, bệnh viện có khả năng chẩn đoán với kỹ thuật PCR nhưng việc điều trị còn hạn chế.
Bệnh quai bị: trong những năm đầu thập niên 2000, quai bị vẫn còn là loại bệnh truyền nhiễm quan trọng nhập viện điều trị với số BN thay đổi tùy theo năm, trung bình số điều trị nội trú mỗi năm là 273 ± 161 trường hợp, trong đó số trẻ em mắc quai bị là 85 ± 62. Số BN nhập viện đã tăng vọt cả ở người lớn và trẻ em trong một số năm. Thí dụ như trong 2 năm 2000 - 2001 đã có 557 người lớn, 335 trẻ em và trong 2 năm 2004 - 2005 có 518 người lớn, 168 trẻ em nhập viện. Trong khi đó, vào các năm 2002, 2003, 2006, số BN người lớn trung bình hàng năm chỉ là 80 và 30 trẻ em. Điều này cho thấy, chủng ngừa phòng bệnh quai bị cần được xem xét để có khuyến cáo thực hiện.
Bệnh dại: qua thế kỷ XXI, số trường hợp bệnh dại được chuyển về BVBNĐ trung bình hàng năm là 12 ± 4 (thay đổi từ 6 - 18 ca). Đa số bệnh nhân cư ngụ tại các tỉnh thành phía nam và không được xử trí vết thương sau khi bị chó cắn, không được chích ngừa vaccin phòng dại.
Nhiễm trùng huyết: số trường hợp cấy máu trung bình mỗi năm tại bệnh viện vào khoảng 4.000 với tỷ lệ cấy máu dương tính là 9%. Tác nhân gây bệnh phát hiện trước năm 2000 chủ yếu là Salmonella typhi nhưng kể từ năm 2000 tới nay, tác nhân chính được phát hiện hàng đầu là nấm Cryptococcus neoformans và Penicillium sp., sau đó là các vi khuẩn dòng Enterobacteriaceae, có tỷ lệ kháng cao với các loại kháng sinh thông thường như ampicillin, co - trimoxazol, nalidixic acid (trên 60%) nhưng còn nhạy cảm tốt với các kháng sinh họ cephalosporin thế hệ 3, amikacin, imipenem.
Bệnh viêm màng não mủ: số trường hợp trung bình dịch não tủy được cấy hàng năm là 1.500, với tỷ lệ dương tính là 12%, trong đó tác nhân chủ yếu là Cryptococcus, tiếp theo là Streptoccocus suis và Streptococcus pneumoniae. Với S. suis, kháng sinh được chọn lựa đầu tiên để điều trị là ceftriaxon hoặc penicillin (nhạy trên kháng sinh đồ 100%) nhưng với Streptococcus pneumoniae, tỷ lệ kháng penicillin đã tăng lên trên 50%.
______________________________________________________
Bạn từng có vấn đề về sức khỏe như Huyết áp, tiểu đường, tim mạch, sỏi thận – sỏi mật, gút, viêm loét, thần kinh tọa, tai biến, ung thư …
Bạn từng mệt mỏi vì điều trị tại các Chuyên khoa- Bệnh viện lớn, Tốn rất nhiều tiền, dùng thuốc Đông – Tây Y nhưng kết quả vẫn không được như mong đợi.
Hãy một lần thử với dòng sản phẩm NONI JUICE của tập đoàn Quốc Tế TAHITIAN NONI INTERNATIONAL của Mỹ.
Bạn từng mệt mỏi vì điều trị tại các Chuyên khoa- Bệnh viện lớn, Tốn rất nhiều tiền, dùng thuốc Đông – Tây Y nhưng kết quả vẫn không được như mong đợi.
Hãy một lần thử với dòng sản phẩm NONI JUICE của tập đoàn Quốc Tế TAHITIAN NONI INTERNATIONAL của Mỹ.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ MỘT SỨC KHỎE TUYỆT HẢO VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÒN PHẢI LO LẮNG VỀ BỆNH TẬT CỦA MÌNH NỮA – SẢN PHẨM NONI JUICE CỦA TẬP ĐOÀN QUỐC TẾ TAHITIAN NONI SẼ GIÚP ĐƯỢC CHO BẠN. Mời vào xem ngay: http://www.BiQuyetSucKhoeTuyetHao.com